Trang chủ  Tin tức sự kiện  Thông tin Quốc hội và đại biểu Quốc hội
LÀM RÕ PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH DỰ THẢO LUẬT PHÒNG THỦ DÂN SỰ, TRÁNH CHỒNG CHÉO VỚI HỆ THỐNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
Cập nhật:17/08/2022 9:27:28 SA
Thượng tướng Trần Quang Phương – Phó Chủ tịch Quốc hội phát biểu kết luận nội dung thảo luận.
Thượng tướng Trần Quang Phương – Phó Chủ tịch Quốc hội phát biểu kết luận nội dung thảo luận.
Chiều ngày 16/8, tiếp tục Phiên họp chuyên đề pháp luật của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các đại biểu cho ý kiến về dự án Luật Phòng thủ dân sự. Thượng tướng Trần Quang Phương – Phó Chủ tịch Quốc hội điều hành nội dung thảo luận.

Xây dựng Luật Phòng thủ dân sự để bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật.

Phát biểu mở đầu nội dung thảo luận, Thượng tướng Trần Quang Phương – Phó Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh, Luật Quốc phòng năm 2018 tiếp tục kế thừa và tạo khung pháp lý chung cho hoạt động phòng thủ dân sự được tổ chức triển khai trong thực tiễn. Phòng thủ dân sự là nội dung quan trọng trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân và là một trong các nhiệm vụ quan trọng thường xuyên của phòng thủ quốc gia. Theo quy định tại Điều 13 Luật Quốc phòng, hiện nay hoạt động này đang thực hiện theo Nghị định số 02 năm 2019 của Chính phủ và các pháp luật có liên quan.

Trước tình hình thế giới, khu vực gần đây chuyển biến nhanh, phức tạp, khó lường dưới tác động của nhiều nhân tố đang gia tăng diễn biến phức tạp và gây thiệt hại to lớn về người và của như đại dịch Covid-19 vừa qua. Hoạt động phòng thủ dân sự tuy đã huy động và sử dụng cơ bản hiệu quả các nguồn lực, bảo đảm phòng ngừa, cảnh báo, ứng phó kịp thời, khắc phục hậu quả, hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại về người, tài sản của Nhà nước và Nhân dân. Nhưng quá trình tổ chức thực hiện cũng đã bộc lộ nhiều vướng mắc, hạn chế, bất cập về thể chế, về năng lực dự báo, cảnh báo rủi ro thiên tai, công tác di dời người dân khi có thảm họa, sự cố, thông tin, tuyên truyền, phổ biến kiến thức cho người dân, sự phối kết hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương, trang bị phương tiện của lực lượng chuyên trách… nên cần thiết phải xây dựng Luật Phòng thủ dân sự để nghiên cứu, khắc phục các bất cập chế nêu trên, nhằm thể chế đầy đủ quan điểm của Đảng, quy định của Hiến pháp, bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật và tính khả thi.

Toàn cảnh Phiên họp chuyên đề pháp luật của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến vào dự án Luật Phòng thủ dân sự.

Thượng tướng Trần Quang Phương – Phó Chủ tịch Quốc hội cho biết, để bảo đảm chất lượng thẩm tra, Ủy ban Quốc phòng An ninh đã phối hợp với Ban soạn thảo dự án luật, các cơ quan hữu quan tiến hành khảo sát ở một số địa phương; chủ trì tổ chức tọa đàm và phối hợp với Viện Nghiên cứu lập pháp đã tổ chức tọa đàm khoa học về dự án luật này. Thường trực Ủy ban Quốc phòng An ninh cũng đã tổ chức hội nghị thẩm tra sơ bộ, Bộ Quốc phòng đã tích cực, khẩn trương nghiên cứu, xây dựng báo cáo ý kiến giải trình tiếp thu ý kiến đại biểu tại hội nghị thẩm tra sơ bộ.

Thượng tướng Trần Quang Phương – Phó Chủ tịch Quốc hội đề nghị các thành viên Ủy ban Thường vụ cho ý kiến tập trung những vấn đề lớn:

Thứ nhất, sự cần thiết ban hành luật, những lý do nêu trong tờ trình, quan điểm của cơ quan thẩm tra, những vấn đề cần làm rõ về căn cứ chính trị, pháp lý và thực tiễn.

Thứ hai, sự phù hợp với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, sự phù hợp với Hiến pháp, tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, sự tương thích với các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên.

Thứ ba, về hồ sơ dự án luật đã điều kiện để trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến cả về Tờ trình, báo cáo tổng kết đánh giá tác động chính sách bình đẳng giới, dự thảo nghị định và các quy định chi tiết.

Thứ tư, về phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật Phòng thủ dân sự.

Thứ năm, về những nội dung cụ thể trong dự thảo luật liên quan đến: giải thích từ ngữ; quy định các dạng thảm họa, sự cố, đánh giá mức độ rủi ro và phân loại cấp độ thảm họa, sự cố; xây dựng hệ thống công trình phòng thủ dân sự về tiêu chí phân loại, phân công các bộ, ngành xây dựng tiêu chí; yêu cầu đáp ứng phòng thủ dân sự tại các công trình; quy định tình trạng khẩn cấp về phòng thủ dân sự; về biện pháp đặc biệt hỗ trợ ứng phó, khắc phục thảm họa sự cố cấp độ 4…

Làm rõ phạm vi điều chỉnh tránh chồng chéo, dàn trải trong hệ thống pháp luật.

Cho ý kiến vào các nội dung cụ thể của dự thảo luật, Trưởng ban Công tác đại biểu thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội Nguyễn Thị Thanh đánh giá cao sự cố gắng, nỗ lực của cơ quan thảo đã xây dựng hồ sơ dự án luật khá công phu, đầy đủ theo quy định của pháp luật. Trưởng ban Công tác đại biểu thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội Nguyễn Thị Thanh đồng tình với cần thiết ban hành Luật Phòng thủ dân sự, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động phòng thủ dân sự, vừa đảm bảo khung pháp lý, đảm bảo thực tiễn diễn ra trong nhiều năm vừa qua.

Trưởng ban Công tác đại biểu Nguyễn Thị Thanh cho rằng, mặc dù khái niệm phòng thủ dân sự đã được quy định tại Điều 13 Luật Quốc phòng, tuy vẫn cần bổ sung khái niệm này trong dự thảo Luật Phòng thủ dân sự để người dân dễ thực hiện. Về phạm vi điều chỉnh của dự thảo luật rất rộng, đề nghị Ban soạn thảo rà soát kỹ lưỡng với các luật liên quan như: Luật Phòng, chống thiên tai; Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm; Luật Phòng cháy, chữa cháy; Luật Bảo vệ môi trường… tránh tình trạng càng ban hành thêm luật, càng làm cho hệ thống pháp luật thiếu thống nhất, chồng chéo.

Trưởng ban Công tác đại biểu thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội Nguyễn Thị Thanh đánh giá cao sự cố gắng, nỗ lực của cơ quan thảo đã xây dựng hồ sơ dự án Luật Phòng thủ dân sự khá công phu, đầy đủ theo quy định của pháp luật

Tờ trình của Chính phủ đề xuất 2 phương án: Phương án 1 quy định tình trạng khẩn cấp về phòng thủ dân sự; Phương án 2 không quy định tình trạng khẩn cấp về phòng thủ dân sự. Trong đó, Chính phủ chọn phương án 1 và được thể trong dự thảo luật. Tuy nhiên, Trưởng ban Công tác đại biểu Nguyễn Thị Thanh cho rằng, do lần đầu trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Quốc hội cho ý kiến vì vậy đề nghị ban soạn thảo trình hai phương án và làm rõ những ưu, nhược điểm của từng phương án, để đại biểu Quốc hội nghiên cứu lựa chọn chính xác hơn.

Về thẩm quyền ban bố tình trạng giới nghiêm và tình trạng khẩn cấp được quy định tại dự thảo luật, trong đó Điều 22 quy định về 4 cấp độ thảm họa, sự cố; Điều 23 quy định về thẩm quyền ban bố, bãi bỏ cấp độ thảm họa, sự cố. Cho ý kiến về quy định này, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Phú Cường cho biết, Điều 23 quy định Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền ban bố bãi thảm họa sự cố cấp 1. Tuy nhiên, trong Hiến pháp nêu rõ ở cấp địa phương không được ban bố tình trạng khẩn cấp.

Về thẩm quyền ban bố tình trạng giới nghiêm, dự thảo luật quy định: Chủ tịch tỉnh ban bố tình trạng giới nghiêm ở một huyện trên địa bàn; Chủ tịch huyện ban bố tình trạng nghiêm 1-2 xã trên địa bàn. Tuy nhiên thảm họa, sự cố cấp độ 1, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền ban bố và bãi bỏ thảm họa cấp độ 1 nhưng cấp độ 1 có thể lan rộng ra cả huyện, như vậy theo Hiến pháp lại thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh; Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện không có thẩm quyền ban bố giới nghiêm… Vì vậy, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Phú Cường đề nghị Ban soạn thảo rà soát lại thẩm quyền ban bố tình trạng khẩn cấp và thẩm quyền ban bố tình trạng giới nghiêm cho thống nhất, đồng bộ.

Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ phát biểu tại Phiên họp.

Phát biểu chỉ đạo tại phiên họp, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ khẳng định khái niệm phòng thủ dân sự xuất hiện lần đầu tại Luật Quốc phòng và Nghị định 02 của Chính phủ. Đây là lĩnh vực mới, chưa rạch ròi, chưa đủ rõ về nội hàm cũng như các quy định đang phân tán, chồng chéo trong hệ thống pháp luật.

Về thuật ngữ phòng thủ dân sự quy định trong Luật Quốc phòng và pháp luật về phòng thủ dân sự vẫn chưa thống nhất. Cụ thể, định nghĩa trong Luật Quốc phòng có nêu: Phòng thủ dân sự là bộ phận của phòng thủ đất nước bao gồm các biện pháp phòng chống chiến tranh; phòng, chống, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh; bảo vệ Nhân dân, cơ quan, tổ chức và nền kinh tế quốc dân.

Trong khi đó tại Chiến lược về phòng thủ dân sự và Nghị định 02 của Chính phủ lại định nghĩa Phòng thủ dân sự là phòng ngừa, khắc phục hậu quả chiến tranh, phòng ngừa, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố thiên tai, dịch bệnh – không nêu phòng thủ dân sự là một bộ phận của phòng thủ quốc gia. Trong Luật Quốc phòng chỉ nói "phòng, chống" (có thêm "chống") nhưng thiếu "khắc phục hậu quả". Trong Nghị định 02 của Chính phủ không nói đến "chống", nhưng nói đến "khắc phục hậu quả". Như vậy, trong hai văn bản pháp luật hiện hành có sự không thống nhất về khái niệm, Ban soạn thảo cần rà soát lại đảm bảo đúng chủ trương của Đảng và đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất.

Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cũng khẳng định, hệ thống pháp luật chuyên ngành đã quy định về phòng chống, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố,như: Luật Phòng, chống thiên tai; Luật đê điều; Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm; Luật Năng lượng nguyên tử; Luật Phòng cháy, chữa cháy; Pháp lệnh về tình trạng khẩn cấp… Qua Tờ trình của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Quốc phòng và An ninh cho thấy việc xây dựng luật nhằm lấp khoảng trống về phòng thủ dân sự mà luật chuyên ngành chưa có; những luật chuyên ngành đã quy định cụ thể về phòng thủ dân sự sẽ áp dụng theo luật chuyên ngành. Chủ tịch Quốc hội cho rằng, nội dung về phòng thủ dân sự quy định tại hai loại văn bản pháp luật, gồm Luật Phòng thủ dân sự và luật chuyên ngành sẽ không đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật.

Chủ tịch Quốc hội đề nghị Ban soạn thảo làm rõ các quy định liên quan đến thảm họa, sự cố trong các luật chuyên ngành đã có đầy đủ 3 nội hàm về phòng, chống và khắc phục hậu quả hay chưa? Việc phân chia phạm vi điều chỉnh luật như vậy có phù hợp hay không, nếu chưa làm rõ sẽ rất khó cho việc thiết kế luật này.

Về quan điểm xây dựng luật của ban soạn thảo có nêu: đối với tình trạng khẩn cấp liên quan đến dân sự thì quy định trong Luật Phòng thủ dân sự, còn tình trạng khẩn cấp liên quan đến quốc phòng an ninh sẽ quy định trong Pháp lệnh khẩn cấp. Theo Chủ tịch Quốc hội, điều này sẽ gây hệ lụy là một lĩnh vực về phòng thì về tình trạng khẩn cấp lại được quy định ở hai văn bản pháp luật. Nếu quy định như vậy sẽ phải nâng pháp lệnh về tình trạng khẩn cấp thành luật và trên thực tế liệu có phân định rạch ròi tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, an ninh và tình trạng khẩn cấp về dân sự; liệu có xảy ra tình trạng phân tán, chồng chéo, dàn trải trong hệ thống pháp luật.

Chủ tịch Quốc hội cũng gợi ý một số phương án để ban soạn thảo tiếp tục nghiên cứu, đó là không quy định tình trạng khẩn cấp trong Luật Phòng thủ dân sự mà sẽ nâng Pháp lệnh về tình trạng khẩn cấp lên thành luật; hoặc không nâng Pháp lệnh về tình trạng khẩn cấp lên thành luật mà quy định vào Luật Phòng thủ dân sự… Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh ban soạn thảo cần làm rõ phạm vi dự thảo luật, từ đó mới có căn cứ, cơ sở thiết kế các điều khoản cụ thể.

 Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Lê Thị Nga đề nghị ban soạn thảo rà soát hệ thống luật hiện hành, đảm bảo sự đồng bộ, tránh chồng chéo, trùng lặp.

Để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của dự thảo luật, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Lê Thị Nga biết, dự án Luật Phòng thủ dân sự có nội dung liên quan đến 86 văn bản quy phạm pháp luật, gồm Hiến pháp, 47 bộ luật và luật, pháp lệnh, 26 nghị định Chính phủ và 13 quyết định của Thủ tướng. Luật Phòng thủ dân sự được ban hành không thay thế các văn bản này và được áp dụng trong trường hợp các văn bản pháp luật chưa quy định.

Do giao thoa với nhiều luật, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Lê Thị Nga. đề nghị Ban soạn thảo tiếp tục rà soát toàn diện, kỹ lưỡng các quy định của Luật Phòng thủ dân sự để đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật, tránh chồng chéo, mâu thuẫn. Đặc biệt là các nội dung quy định về xác định cấp độ của thảm họa, sự cố, thẩm quyền ban bố, bãi bỏ các cấp độ thảm họa sự cố, tình trạng khẩn cấp, các hoạt động phòng thủ dân sự khi có nguy cơ xảy ra thảm họa, sự cố…

Tại phiên thảo luận, đại diện lãnh đạo Bộ Tư pháp và cơ quan soạn thảo luật đã giải trình, tiếp thu ý kiến của thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội liên quan đến phạm vi điều chỉnh dự thảo luật, khái niệm về phòng thủ dân sự, quy định về tình trạng khẩn cấp trong dự thảo luật…

Phát biểu kết luận phiên thảo luận về dự án Luật Phòng thủ dân sự, Thượng tướng Trần Quang Phương – Phó Chủ tịch Quốc hội khẳng định, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thống nhất cao về sự cần thiết ban hành luật, đánh giá cao sự nỗ lực, trách nhiệm và sự cầu thị của cơ quan soạn thảo dự án luật, sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan cũng như Thường trực Ủy ban Quốc phòng, An ninh của Quốc hội trong quá trình chuẩn bị thẩm tra sơ bộ dự thảo luật. Các ý kiến tại phiên họp tập trung vào sự thống nhất giữa quy định của dự thảo luật, pháp luật liên quan; giải thích từ ngữ; quy định các dạng thảm họa, sự cố; đánh giá mức độ rủi ro và phân loại cấp độ thảm họa sự cố; xây dựng hệ thống công trình, quy định về phòng thủ dân sự trong tình trạng khẩn cấp…

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ chỉ đạo cơ quan soạn thảo phối hợp với các bộ, ngành và các cơ quan liên quan nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để chuẩn bị lại dự án luật, trong đó cần làm rõ hơn các quan điểm, mục tiêu, nguyên tắc ban hành luật và phạm vi điều chỉnh, những nội dung kế thừa, phát triển, những nội dung mới so với pháp luật hiện hành, bảo đảm cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về phòng, chống và khắc phục thảm họa, sự cố, đặc biệt là Nghị quyết của Bộ Chính trị về phòng thủ dân sự sẽ ban hành trong thời gian gần đây.

Ban soạn thảo cần có báo cáo tổng kết, đánh giá đầy đủ, khách quan, toàn diện hơn kết quả thi hành pháp luật về phòng thủ dân sự, pháp luật liên quan có quy định về việc phòng thủ dân sự, đánh giá tác động với các chính sách của dự án luật và một số quy định cụ thể dự thảo luật chưa được xem xét.

Tiếp tục nghiên cứu, rà soát, làm rõ khái niệm phòng thủ dân sự, tình trạng khẩn cấp, thảm họa, sự cố và các cái khái niệm về phòng thủ dân sự, tình trạng khẩn cấp, thảm họa sự cố và các điểm khác; làm rõ phạm vi điều chỉnh để thống nhất với nội dung dự thảo luật và quy định phòng thủ dân sự tại Điều 13 Luật Quốc phòng, cũng như các quy định của pháp luật khác về phòng thủ dân sự, tránh mâu thuẫn, chồng chéo với phạm vi điều chỉnh của các luật liên quan.

Thượng tướng Trần Quang Phương – Phó Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh, do nội dung dự thảo luật liên quan đến rất nhiều văn bản luật về phòng thủ dân sự, tình trạng khẩn cấp, thảm họa, sự cố, trong đó có văn bản đã có những quy định cụ thể và đang thực hiện. Vì vậy, cần phải tổng kết, đánh giá việc thi hành các luật liên quan; rà soát một cách cụ thể nhất, nhất là khoảng trống mà các pháp luật chưa quy định hoặc quy định khác để thiết kế lại các điều luật; liệt kê, rà soát đầy đủ từng khoảng trống để đưa vào các điều luật một cách cụ thể.

Tiếp tục rà soát để giải thích các từ ngữ trong dự thảo luật rõ ràng, dễ hiểu, dễ phân định, làm căn cứ để quy định các nội dung có liên quan; xây dựng, đánh giá các tiêu chí phân loại, yêu cầu đáp ứng trong phòng thủ dân sự trong các công trình phòng thủ dân sự phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành, tránh phát sinh thủ tục, nghĩa vụ và bảo đảm tính khả thi…

Sau phiên họp này, Thượng tướng Trần Quang Phương – Phó Chủ tịch Quốc hội đề nghị cơ quan soạn thảo báo cáo Chính phủ huy động lực lượng nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của cơ quan thẩm tra, ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chuẩn bị lại sớm dự thảo luật và hồ sơ dự án luật, báo cáo Chính phủ để trình Ủy ban Thường vụ vào phiên họp tháng 9 tới.

Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội chủ trì, phối hợp với Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban Quốc hội và các cơ quan liên quan thẩm tra dự án luật để báo cáo Ban Thường vụ Quốc hội; phấn đấu trình Quốc hội trong kỳ họp thứ 4 tới.

Cổng Thông tin điện tử Quốc hội trân trọng giới thiệu một số hình ảnh tại phiên họp:

Toàn cảnh Phiên họp chuyên đề pháp luật của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến vào dự án Luật Phòng thủ dân sự.

Các đại biểu tham dự Phiên họp.

Thượng tướng Nguyễn Tân Cương, Tổng Tham mưu trưởng, Thứ trưởng Bộ trưởng Bộ Quốc phòng phát biểu tại phiên thảo luận.

Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội Lê Tấn Tới 

Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ khẳng định, nếu chưa làm rõ phạm vi điều chỉnh sẽ rất khó cho việc thiết kế luật Phòng thủ dân sự.

Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Phú Cường đề nghị Ban soạn thảo rà soát lại thẩm quyền ban bố tình trạng khẩn cấp và thẩm quyền ban bố tình trạng giới nghiêm, đảm bảo thống nhất, đồng bộ với pháp luật hiện hành.

Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội Nguyễn Đắc Vinh phát biểu ý kiến tại phiên họp.

Nguồn: quochoi.vn

 Bản in]